Thai lạc chỗ là gì? Các công bố khoa học về Thai lạc chỗ

"Thai lạc chỗ" là một thành ngữ trong tiếng Việt, có nghĩa là bị lạc, không biết đường về nhà hoặc không tìm được đường đi đúng. Cụm từ này thường được sử dụng ...

"Thai lạc chỗ" là một thành ngữ trong tiếng Việt, có nghĩa là bị lạc, không biết đường về nhà hoặc không tìm được đường đi đúng. Cụm từ này thường được sử dụng để miêu tả tình trạng mất phương hướng, lạc lối, không biết điều gì đúng đắn.
"Thai lạc chỗ" xuất phát từ cách diễn đạt của người Việt Nam dựa trên quan niệm về sự định hướng và định vị trong không gian. Trong quan niệm này, mỗi người được coi là một ngôi nhà, và sự lạc chỗ tức là mất phương hướng, không biết về đúng đường đi hoặc không tìm ra đường về nhà của mình.

Cụm từ này thường được dùng để diễn tả không chỉ mất phương hướng vật lý trong không gian, mà còn mất phương hướng trong cuộc sống, đối tác, mục tiêu hay quyết định. Khi ai đó "thai lạc chỗ", thông thường tức là họ không biết mình đang ở đâu, không biết cách đi đúng hướng và không tìm được lối về.

"Thai lạc chỗ" có thể ám chỉ mất định hướng trên mặt trận công việc, trong cuộc sống cá nhân hay trong nhiều khía cạnh khác. Nó thể hiện sự bối rối, mất tự tin và không có sự quyết đoán trong việc điều hướng bản thân.
"Thai lạc chỗ" có thể hiểu theo hai khía cạnh: ở mặt địa lý và ở mặt tâm lý.

1. Mặt địa lý: "Thai lạc chỗ" có nghĩa là bị lạc, không biết đường đi hoặc không biết cách tìm đường về nhà. Đây thường là tình huống khi người ta bị mất phương hướng trong không gian, không biết cách di chuyển đúng hướng, và cảm thấy lạc lối.

2. Mặt tâm lý: "Thai lạc chỗ" cũng có thể ám chỉ tâm trạng và trạng thái tinh thần của ai đó. Khi ai đó "thai lạc chỗ" tâm lý, tức là họ cảm thấy mất phương hướng, không biết mình đang điều hướng cuộc sống theo hướng nào, không biết mục tiêu và mục đích của mình là gì, và không có sự quyết đoán trong việc điều hướng bản thân. Họ có thể cảm thấy lạc lối, bối rối, tự ti và không biết làm thế nào để tìm lại định hướng và mục tiêu của mình.

Vì vậy, "thai lạc chỗ" không chỉ mô tả tình trạng mất định hướng vật lý mà còn thể hiện tâm trạng và trạng thái tinh thần của người bị ảnh hưởng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thai lạc chỗ":

Khả năng bám dính của Plasmodium falciparum vào Chondroitin Sulfate A trong nhau thai người Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 272 Số 5267 - Trang 1502-1504 - 1996

Phụ nữ đặc biệt nhạy cảm với bệnh sốt rét trong lần mang thai đầu và thứ hai, dù họ có thể đã phát triển khả năng miễn dịch sau nhiều năm sống ở các vùng sốt rét lưu hành. Các tế bào hồng cầu bị nhiễm Plasmodium falciparum- (IRBCs) được thu thập từ nhau thai của con người. Những tế bào này bám vào chondroitin sulfate A (CSA) đã tinh chế nhưng không bám vào các protein chất nền ngoại bào khác hay các thụ thể IRBC đã biết khác. Tế bào IRBCs từ những người không mang thai không bám vào CSA. Các tế bào IRBCs từ nhau thai bám vào các mẫu nhau thai người đã được đông lạnh tươi với sự phân bố anatomic tương tự như nhau thai bị nhiễm tự nhiên, và sự bám dính này bị ức chế cạnh tranh bởi CSA đã tinh chế. Do đó, sự bám dính vào CSA dường như chọn lọc cho một phân nhóm ký sinh trùng gây ra sốt rét ở mẹ.

#sốt rét thai kỳ #<i>Plasmodium falciparum</i> #Chondroitin Sulfate A #tế bào hồng cầu bị nhiễm #miễn dịch thai kỳ
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH TÁCH CHIẾT POLYSACCARIDE TỔNG TỪ THÂN CÂY SÂM XUYÊN ĐÁ (MYXOPYRUM SMILACIFOLIUM WALL. BLUME) VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tân Trào - Tập 6 Số 17 - Trang 36-41 - 2020
Sâm xuyên đá (Myxopyrum smilacifolium (Wall.) Blume) là một dược liệu quý. Tuy nhiên quy trình tách chiết chưa được tối ưu hóa. Trong nghiên cứu này sâm xuyên đá được thu mua tại xã La Hiên, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu đã xác định được điều kiện tách chiết polysaccaride tổng từ thân cây sâm xuyên đá: dung môi ethanol 85%, tỉ lệ nguyên liệu/dung môi là 1/15 (w/v), thời gian tách chiết là 120 phút, nhiệt độ 90oC. Quy trình tách chiết cho hàm lượng polysaccaride tổng số đạt 93,4 (mg/g), dịch chiết cho khả năng chống oxy hóa 109,14 (µg/ml).
#Myxopyrum smilacifolium #process #extraction #Thai Nguyen #extract.
Đánh giá kết quả điều trị thai lạc chỗ bằng phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Sản - Nhi Quảng Ngãi
Tạp chí Phụ Sản - Tập 20 Số 2 - Trang 57-62 - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi thai lạc chỗ tại Bệnh viện Sản - Nhi Quảng Ngãi. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên các trường hợp thai lạc chỗ được điều trị bằng phẫu thuật nội soi tại Bệnh viện Sản - Nhi Quảng Ngãi thoả mãn tiêu chuẩn chọn và loại trừ trong thời gian nghiên cứu từ tháng 07/2020 đến tháng 05/2021. Kết quả: Với 78 trường hợp nhận vào mẫu, độ tuổi trung bình 30,3 ± 5,7 tuổi, tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung (26,9%), tiền sử sẩy thai/thai lưu (19,2%), viêm nhiễm phụ khoa (17,9%) và nạo hút thai (16,7%). Bệnh nhân vào viện hầu hết có đau bụng (98,7%) và ra máu âm đạo (71,8%). Nồng độ βhCG trung bình 6481,82 ± 879,99 mUI/ml. Vị trí thường gặp nhất của thai lạc chỗ là đoạn bóng 71,8%. Nội soi cho thấy 60% khối thai đã vỡ và 12,8% có dày dính tiểu khung. Tỷ lệ thành công bằng phẫu thuật nội soi là 97,4%, có 2 trường hợp thất bại phải chuyển mổ hở chiếm 2,6%. Không ghi nhận tai biến gì trong và sau nội soi. Thời gian phẫu thuật trung bình là 50,8 ± 15,2 phút. Có 9,0% thai phụ cần truyền máu trong phẫu thuật. Thời gian nằm viện trung bình là 6,67 ± 0,62 ngày. Kết luận: Điều trị thai lạc chỗ bằng phẫu thuật nội soi là phương pháp an toàn và hiệu quả.
#thai lạc chỗ #nội soi #ống dẫn trứng
Nghiên cứu giá trị của các xét nghiệm progesteron, β-hCG huyết thanh và siêu âm đầu dò đường âm đạo trong chẩn đoán sớm thai lạc chỗ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 12 Số 3 - Trang 36-39 - 2014
Mục tiêu: Nghiên cứu giá trị của progesteron, β-hCG phối hợp với siêu âm đường âm đạo trong chẩn đoán sớm thai lạc chỗ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 200 trường hợp đươc chẩn đoán thai lạc chỗ đến khám và điều trị tại Khoa Phụ sản, Bệnh viện Phụ sản – Nhi Đà Nẵng từ tháng 04 năm 2013 đến tháng 04 năm 2014. Kết quả: Với giá trị điểm cắt của β-hCG là 275miu/ml thì độ nhạy là 75%, độ đặc hiệu là 100%, giá trị chẩn đoán là 94,7%. Với giá trị điểm cắt của progesteron là 5 ng/ml thì độ nhạy là 86,8%, độ đặc hiệu là 100%, giá trị chẩn đoán là 91%. Với siêu âm đầu dò đường âm đạo thì độ nhạy là 97%, độ nhạy là 33,3% và giá trị chẩn đoán là 93%. kết Luận: Không có xét nghiệm nào có độ nhạy và độ đặc hiệu 100%. Muốn chẩn đoán sớm thai lạc chỗ phải kết hợp cả 03 phương pháp trên.
Thai lạc chổ ở vết mổ cũ điều trị tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 1 - Trang 70 - 72 - 2015
Mang thai ở sẹo mổ cũ(CSP) là một trong những hình thái thai ngoài tử cung hiếm gặp. Với sự gia tăng tỷ lệ mổ lấy thai trên toàn thế giới, ngày càng có nhiều trường hợp được chẩn đoán và báo cáo. Siêu âm màu và dòng chảy Doppler qua đường âm đạo cho một chẩn đoán chính xác cao với rất ít dương tính giả. Sự chậm trễ trong chẩn đoán và / hoặc điều trị có thể dẫn đến vỡ tử cung, xuất huyết nặng, cắt bỏ tử cung và bệnh tật mẹ nghiêm trọng. Chẩn đoán sớm có thể cung cấp các lựa chọn điều trị để tránh vỡ tử cung, xuất huyết, do đó giữ được tử cung và khả năng sinh sản trong tương lai. Kế hoạch quản lý nên được thiết kế theo từng trường hợp, chấm dứt thai kỳ là điều trị được lựa chọn trong ba tháng đầu, ngay sau khi chẩn đoán. Điều trị chờ đợi có tiên lượng kém vì nguy cơ vỡ. Chảy máu nghiêm trọng sau một thủ thuật nạo phá thai, giả sẩy thai, hoặc thai lưu trên một phụ nữ có sẹo mổ cũ nên cảnh giác một CSP.
Thai trứng lạc chỗ ở đoạn kẽ: Ca lâm sàng, tổng quan chẩn đoán và điều trị
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 3 - Trang 57-60 - 2021
Thai trứng lạc chỗ hiếm khi xảy ra, do đó thường ít được nghĩ đến để cân nhắc chẩn đoán trên lâm sàng. Hình ảnh siêu âm kết hợp với giá trị hCG cao bất thường so với tuổi thai gợi ý bệnh lí thai trứng. Chẩn đoán thai trứng dựa vào tiêu chuẩn vàng mô bệnh học. Chúng tôi báo cáo một trường hợp thai trứng lạc chỗ ở đoạn kẽ tử cung. Bệnh nhân được điều trị phẫu thuật nội noi bằng kỹ thuật khâu thắt miệng túi trước khi xẻ góc tử cung và được theo dõi sau phẫu thuật.
#thai trứng lạc chỗ #thai trứng #thai đoạn kẽ
NGHIÊN CỨU QUY TRÌNH TÁCH CHIẾT POLYSACCARIDE TỔNG TỪ THÂN CÂY SÂM XUYÊN ĐÁ (MYXOPYRUM SMILACIFOLIUM WALL. BLUME) VÀ ĐÁNH GIÁ HOẠT TÍNH CHỐNG OXY HÓA
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Tân Trào - Tập 6 Số 17 - Trang 36-41 - 2020
Sâm xuyên đá (Myxopyrum smilacifolium (Wall.) Blume) là một dược liệu quý. Tuy nhiên quy trình tách chiết chưa được tối ưu hóa. Trong nghiên cứu này sâm xuyên đá được thu mua tại xã La Hiên, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu đã xác định được điều kiện tách chiết polysaccaride tổng từ thân cây sâm xuyên đá: dung môi ethanol 85%, tỉ lệ nguyên liệu/dung môi là 1/15 (w/v), thời gian tách chiết là 120 phút, nhiệt độ 90oC. Quy trình tách chiết cho hàm lượng polysaccaride tổng số đạt 93,4 (mg/g), dịch chiết cho khả năng chống oxy hóa 109,14 (µg/ml).
#Myxopyrum smilacifolium #process #extraction #Thai Nguyen #extract.
Đặc điểm nồng độ CA-125, beta-hCG và progesterone huyết thanh trong thai lạc chỗ
Tạp chí Phụ Sản - Tập 19 Số 3 - Trang 26-30 - 2021
Mục tiêu: Khảo sát giá trị CA-125, β-hCG và progesterone huyết thanh trong các trường hợp thai lạc chỗ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng trên 42 trường hợp thai lạc và 42 trường hợp thai trong tử cung được quản lý tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế từ 05/2019 đến 05/2020. Chẩn đoán xác định thai lạc chỗ dựa vào kết quả phẫu thuật và giải phẫu bệnh. Nhóm chứng là các trường hợp đơn thai phát triển bình thường trong tử cung, tương đồng tuổi thai. Nồng độ CA-125 và β-hCG, progesterone huyết thanh khảo sát theo các nhóm tuổi thai, < 6 tuần, 6 - 7 tuần, và ≥ 8 tuần. Kết quả: Nồng độ CA-125 ở nhóm thai lạc chổ là 23,8 U/ml (11,6 - 59,4), thấp hơn nhóm thai trong tử cung 70,1 U/ml (35,0 - 146,0), p < 0,001. Nồng độ β-hCG và progesterone ở nhóm thai lạc chỗ thứ tự là 2570,0 mUI/ml (42,8 - 94579,0) và 9,1 ng/ml (0,7 - 29,8), các giá trị này đều thấp hơn so với nhóm thai trong tử cung, tương ứng là 18357,5 mIU/ml (4622,0 - 157985,0) và 26,7 ng/ml (20,4 - 37,1), p < 0,001. Ở nhóm thai lạc chổ, nồng độ CA-125 không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê theo tuổi thai, ở nhóm < 6 tuần, 6 - 7 tuần và nhóm ≥ 8 tuần tương ứng là 23,2 U/ml (11,6 - 59,4), 23,6 U/ml (15,9 - 48,9) và 23,3 U/ml (20,5 - 32,8), p = 0,08. Trong khi đó, ở nhóm thai phát triển trong tử cung, nồng độ CA-125 tăng dần theo tuổi thai, nhóm < 6 tuần, 6 - 7 tuần và nhóm ≥ 8 tuần tương ứng 59,1 U/ml (35,0 - 83,3), 81,4 U/ml (75,7 - 90,1) và 101,1 U/ml (91,4 - 146,0), p = 0,02. Kết luận: Nồng độ CA-125 và β-hCG, progesterone thấp hơn trong thai lạc chỗ so với thai trong tử cung. Giá trị CA-125 thay đổi không đáng kể theo tuổi thai trong nhóm thai lạc chỗ.
#thai lạc chỗ #CA-125 #β-hCG #progesterone
Chống dao động và định vị cho cần cẩu tháp hai con lắc bằng Bộ điều khiển từ chối nhiễu chủ động cải tiến Dịch bởi AI
International Journal of Control, Automation and Systems - Tập 21 - Trang 1210-1221 - 2023
Trong hầu hết các tình huống làm việc của cần cẩu tháp, tải trọng dao động xung quanh các móc, dẫn đến tác động của con lắc đôi. Điều này làm cho cần cẩu tháp trở nên kém điều khiển hơn và phi tuyến tính hơn, từ đó khó kiểm soát hơn. Để giải quyết những vấn đề này, chúng tôi đã thiết kế một Bộ điều khiển từ chối nhiễu chủ động cải tiến (I-ADRC). Đầu tiên, chúng tôi đề xuất một hàm phi tuyến mượt mà để giảm dao động tần số cao của hệ thống ở trạng thái ổn định và tránh hiện tượng “chattering”. Thứ hai, chúng tôi xây dựng một loại Quan sát viên trạng thái mở rộng (ESO) mới để cải thiện hiệu suất phản hồi động của hệ thống. Sau đó, chúng tôi chứng minh rằng hệ thống vòng kín là ổn định tiệm cận dưới các tham số hợp lý bằng cách sử dụng tiêu chuẩn Hurwitz và kỹ thuật Lyapunov. Kết quả mô phỏng số cho thấy bộ điều khiển mà chúng tôi đề xuất có hiệu suất điều khiển vượt trội và tính ổn định mạnh mẽ.
#cần cẩu tháp #bộ điều khiển từ chối nhiễu #dao động #trạng thái mở rộng #ổn định tiệm cận
Chlamydia trachomatis và viêm nhau thai trong trường hợp sinh non sớm Dịch bởi AI
European Journal of Epidemiology - Tập 26 - Trang 421-428 - 2011
Chlamydia trachomatis có thể lây nhiễm sang nhau thai và từ đó dẫn đến sinh non. Mục tiêu của chúng tôi là đánh giá mối quan hệ giữa sự hiện diện của Chlamydia trachomatis và các dấu hiệu viêm nhau thai ở những phụ nữ sinh ở tuần 32 của thai kỳ hoặc ít hơn. Bối cảnh: Dữ liệu mô học nhau thai và lâm sàng đã được thu thập theo cách triển khai từ 304 phụ nữ và trẻ sơ sinh tại Erasmus MC-Sophia, Rotterdam, Hà Lan. Kiểm tra Chlamydia trachomatis trên nhau thai đã được thực hiện hồi cứu bằng phương pháp PCR. Chlamydia trachomatis đã được phát hiện trong 76 (25%) nhau thai. Bằng chứng mô học về viêm nhau thai có mặt trong 123 (40%) nhau thai: ở 41/76 (54%) nhau thai có Chlamydia trachomatis so với 82/228 (36%) nhau thai không có nhiễm Chlamydia trachomatis (OR 2.1, 95% CI 1.2–3.5). Nhiễm Chlamydia trachomatis tương quan với sự tiến triển (P = 0.009) và cường độ (P = 0.007) của viêm nhau thai mẹ-nhau. DNA của Chlamydia trachomatis thường được phát hiện trong nhau thai của những phụ nữ có sinh non sớm, và có liên quan đến các dấu hiệu giải phẫu bệnh của viêm nhau thai.
#Chlamydia trachomatis #viêm nhau thai #sinh non #tiến triển viêm #cấp độ viêm
Tổng số: 17   
  • 1
  • 2